Tôi thích thú nhìn vầng trăng đổi sắc kỳ dị như viên ngọc màu lam quý hiếm. Vào mỗi đêm Thanh Hằng, vạn vật tắm trong ánh sáng xanh huyền ảo cũng trở nên độc đáo lạ thường. Phía trước có một cặp tình nhân. Cô gái chỉ cao đến vai chàng trai nhưng trông hai người rất xứng đôi. Họ sánh bước bên nhau, tay trong tay tạo thành bức họa đẹp đẽ di động giữa phông nền nhập nhoạng tối. Cả hai ghé qua sạp hàng bên đường mua ít đồ ăn vặt, đồng thời trò chuyện vài câu với bà chủ quán. Tôi loáng thoáng nghe ra họ sắp sửa đến hồ Nhân Duyên thì khấp khởi mừng thầm, ước lượng khoảng cách phù hợp rồi lặng lẽ bám theo.

Đi lòng vòng nửa tiếng đồng hồ mãi chẳng tới nơi, tôi bắt đầu mất kiên nhẫn, liếc thấy cặp tình nhân kia sắp sửa bước vào nhà hàng thì vội vã hiện thân chạy đến, làm ra vẻ tự nhiên bắt chuyện. “Xin hỏi từ đây đến hồ Nhân Duyên còn bao xa? Cứ đến ngày này hàng năm là nơi đó đông nghịt người, ta sợ không tới sớm thì chẳng chen vào nổi.”

Bọn họ hơi ngạc nhiên trước câu hỏi đường đột của tôi, tuy vậy vẫn giữ thái độ lịch sự đáp lời. “Ta không biết chính xác nhưng cách khá xa đấy. Ngươi muốn đến sớm thì tốt hơn hết nên cưỡi Phương điểu. Dùng thuật Di chuyển vừa tốn thời gian, vừa hao phí linh lực.”

“Các ngươi không định tới đó sao?”

“Có chứ. Nhưng bọn ta phải ăn tối trước đã. Cất công tới đây chỉ để thưởng thức đặc sản của nhà hàng này, năm nào cũng vậy, gần như trở thành thói quen rồi.” Cô gái nhìn vẻ mặt nhăn nhó của tôi thì cười khúc khích. “Đừng vội. Qua mười hai giờ đêm ngày lễ mới kết thúc cơ mà. Bây giờ ngươi đi vẫn còn kịp chán.”

Tôi nhìn vị tiểu thư suốt dọc đường đã càn quét hết mấy túi đồ ăn vặt lớn nhỏ mà hiện tại vẫn háo hức đón chờ bữa tối, trong lòng không khỏi bội phục. Vốn tưởng rằng chỉ cần theo chân bọn họ là xong, nào ngờ hỏi đường mới biết mình đã lãng phí cả đoạn dài vô ích, rốt cuộc vẫn phải vòng ngược trở lại. Bất khả năng định hướng kém cỏi, cuối cùng tôi cũng mò được đến nơi sau khoảng thời gian khá dài. Nhìn từ xa chỉ trông thấy một màu đen kịt lổn nhổn đầu người. Tất cả vây quanh cây cổ thụ sừng sững mọc bên hồ, cây Nhân Duyên – biểu tượng cho ngày Thanh Hằng.

Tương truyền đó là loài cây linh thiêng gắn kết duyên phận của hai người. Quanh năm suốt tháng nó chỉ rụng lá một lần duy nhất vào ngày lễ. Chiếc lá đỏ tươi ngay cả khi lìa cành vẫn không hề khô héo. Nó rực rỡ tựa sức sống của niềm tin. Dù có phải chen lấn xô đẩy, người ta cũng quyết giành giật bằng được một chiếc lá Nhân Duyên, dùng sợi tóc của cặp tình nhân hóa thành hai cái tên in trên phiến lá, làm phép đưa lá bay lên rồi nó tự gắn liền vào cành như chưa hề tách rời. Người ta tin rằng, chỉ cần trên cây còn tồn tại chiếc lá của cặp tình nhân nào thì duyên phận của họ vẫn sẽ bền vững, vượt qua gập ghềnh trắc trở quay về bên nhau. Trái lại, lá rụng hết là duyên đã tận, tơ hồng cắt đứt là tình phôi phai, dẫu níu kéo rồi cũng đành ngậm ngùi chia ly trong nuối tiếc. Có những chiếc lá vừa bay lên liền hạ xuống, vô duyên vô phận.

Nhiều cặp đôi năm nào cũng bền bỉ tới đây. Vì mỗi lần chỉ được đính lên một chiếc lá, số lượng tồn tại càng nhiều thì hy vọng càng lớn, họ càng có cơ sở để tin tưởng vào tình yêu mà bản thân đã đánh cược cả trái tim vào đó. Chưa ai dám khẳng định gốc cây này có thật sự linh thiêng hay không? Hoặc giả, họ cũng chẳng muốn tìm hiểu, chỉ cần một nơi để gửi gắm hy vọng mà thôi.

Bao quanh cây Nhân Duyên là vùng đất trống khá rộng, vùng bất khả xâm phạm, nơi những chiếc lá rụng xuống và không ai được phép tiến vào. Đám đông tụ tập xung quanh nhìn chằm chằm vào khoảng không như hổ đói rình mồi, mòn mỏi chờ đợi. Lá đỏ vừa chạm đất, ngay tức khắc bị lấy đi bởi phép thuật. Thao tác quá đơn giản mà ai cũng thực hiện được dễ dàng cũng chính là điểm gây khó khăn vì có quá nhiều đối thủ bên cạnh. Theo tôi thấy, đây là việc đòi hỏi tính may mắn cao. Và lý do khiến tôi hào hứng tham gia, ngoài sự thú vị cảm thấy thì là để thử vận may của mình.

Vừa có chiếc lá uyển chuyển chao lượn giữa không trung. Ánh nhìn của mọi người liền rớt theo nó. Thêm hai cái bóng đỏ thấp thoáng, vừa vặn ba chiếc lá đồng thời rụng xuống. Tôi không tham lam mà chỉ nhìn chằm chằm vào lá đỏ sau cùng, áng chừng nó sắp chạm đất thì dùng phép thuật theo cảm giác. Nào ngờ buổi tối đen đủi lại kết thúc bằng tia may mắn hiếm hoi. Tôi hân hoan ôm thành phẩm rời đi trước ánh nhìn ghen tị của đám người, luồn lách ra ngoài hít thở bầu không khí thoáng đãng.

Gần đấy có mấy cặp đôi tựa vào vai nhau, say mê dõi theo chiếc lá chở niềm hy vọng của bọn họ chắp cánh bay lên. Nụ cười hạnh phúc quyện vào ánh trăng hiền hòa như viên kẹo ngọt tan chảy dưới đốm lửa ấm áp. Tôi thẫn thờ ngước mắt cùng bọn họ, chiêm ngưỡng tán cây sum sê rừng rực đốt cháy nền trời, lắng nghe tràng âm thanh náo nhiệt vọng lại cách đấy không xa rồi đột nhiên cảm thấy lạc lõng. Ngón tay vân vê chiếc lá nhỏ mang màu sắc tươi tắn. Hai bên cuống lá cân đối một cách hoàn hảo, rất dung dị nhưng cũng rất độc đáo. Có điều thật đáng tiếc, tôi nghĩ mình chẳng có cơ hội dùng đến.

Khắp nơi nhộn nhịp các sạp hàng bày bán như trong hội chợ thu nhỏ. Tôi cầm trên tay cốc trà nóng mới mua, lượn lờ mấy vòng rồi dừng chân trước tiệm trang sức lớn khá đông khách. Men theo dòng người tấp nập, tôi hiếu kỳ xếp hàng đi vào trong và dừng trước mặt hàng đang bán chạy nhất. Đặt dưới lớp kính là những sợi dây chuyền được chế tác tinh xảo. Chúng hoàn toàn khác biệt, không có bất kỳ sự trùng lặp nào về thiết kế. Chắc bởi vậy nên số lượng bày bán không nhiều. 

Điều khiến tôi ngạc nhiên là sự tương phản lạ lùng giữa sợi dây và mặt đá. Nếu như sợi dây mảnh bằng bạch kim tinh tế đến từng mắt xích nhỏ thì mặt đá lại mang màu trắng đục đơn giản đến tầm thường, không lấp lánh như hầu hết các loại đá quý sau chế tác. Lúc ấy, tôi chưa biết rằng vẻ đẹp của nó chỉ bộc lộ khi được sử dụng đúng cách nên rất bất ngờ khi thấy mọi người tranh nhau mua mấy sợi dây chuyền vô vị. Âm thầm lẻn ra khỏi cửa hàng, ấn tượng trong đầu tôi chỉ gói gọn với hai chữ: “đắt đỏ”.

Một mình tôi lang thang khám phá từng ngóc ngách, cho tới khi bước chân dần trở nên rã rời. Mỗi lần dừng tôi đều không quên đảo mắt tìm kiếm, mỗi lần tìm kiếm là một lần thất vọng. Hắn vẫn chưa đến. Cho dù chính hắn là người chủ động đề nghị dẫn tôi đi chơi vào ngày Thanh Hằng.

Ánh sáng lần lượt rời bỏ các gian hàng. Dòng người thưa thớt hơn và tràng âm thanh huyên náo cũng dần lắng xuống. Bầu không khí mới đây còn rộn ràng lúc này xẹp đi như ngọn lửa đang tàn lụi. Gió mơn man trên da thịt nghe lành lạnh. Tôi co người trên chiếc ghế đá lớn, hai tay đan vào nhau. Có cặp tình nhân đi ngang qua rồi ngoảnh đầu nhìn tôi đầy thương cảm. Tôi hờ hững mỉm cười với họ.

Đợi chờ thật ra là một loại cảm giác đầy mâu thuẫn. Nửa háo hức, nửa buồn phiền. Nửa vui mừng, nửa rầu rĩ. Trong sự tình nguyện lại thấy thật miễn cưỡng. Mỗi lần định từ bỏ thì vô thức do dự, sợ rằng thời khắc mình rời đi là lúc người kia vừa bước đến, để rồi tiếp tục nấn ná trong sự lo ngại về viễn cảnh “bỏ lỡ” có thể xảy ra. Và cái sự chờ kéo dài mãi cho tới khi hy vọng bị thời gian chà đạp hóa thành tuyệt vọng.

Thật ra tôi không ngại chờ, tôi chỉ sợ chờ được người không xứng đáng.

Qua mười hai giờ đêm là thời điểm ngày lễ chấm dứt. Chiếc lá mà tôi nâng niu tiêu biến trong nỗi niềm u uất không được sử dụng. Tôi phủi váy đứng dậy, mang theo tâm trạng nặng nề tìm đường trở về theo trí nhớ.

Ngày hôm sau, toàn bộ khu phố tôi đến ngập chìm trong màu trắng tang thương, chỉ qua một đêm mà như bước nhầm vào thế giới khác. Tôi cũng đổi trang phục của mình trắng toát từ trên xuống dưới giống những người đi đường. Đến đúng mười hai giờ trưa, tiếng chuông đồng loạt vang lên từ khắp các lâu đài trên vương quốc. Tất cả mọi người dừng công việc đang làm, đứng thẳng tại chỗ, tay phải đặt trên ngực trái vẻ thành kính. Đôi mắt họ khép lại, miệng lầm rầm niệm chú ngữ gì đó mà tôi không nghe được. Đây là giờ phút mặc niệm sau hồi chuông báo tử.

Quốc vương đã băng hà.