Càng ngày tôi càng vận dụng thuật Xuyên thấu thuần thục hơn, đọc suy nghĩ của người khác cũng dễ dàng hơn, tuy nhiên, vẫn chưa đạt được cấp bậc cao nhất của thuật pháp là xem ký ức lưu trong vật thể. Mỗi lần thất bại là một lần thất vọng. Tôi dần trở nên thiếu kiên nhẫn và hoài nghi năng lực của chính mình. Cho dù tôi thường xuyên mang Tinh cầu của lão Trần ra luyện tập, cho dù tôi nóng lòng muốn biết mảnh ký ức ẩn giấu trong đấy, cuối cùng vẫn chẳng làm gì được. Làn khói lượn lờ bên trong như đang cười nhạo tôi, cười nhạo những nỗ lực tôi bỏ ra chẳng khác nào tín hiệu phát đi không hồi đáp. Cứ dò dẫm trong cái vòng tròn luẩn quẩn ấy, mãi cho tới một lần tôi bắt được chút mảnh vụn bất ngờ lóe lên như sao băng vụt sáng giữa bầu trời.

Đó là khi đang thi triển phép thuật, tôi đột nhiên trông thấy một phần rất nhỏ hồi ức được lưu giữ trong Tinh cầu đầu tiên mà tôi đã có cơ sở để khẳng định rằng nó thuộc về Huyền Điệp, dù sao nàng ta cũng là nhà tiên tri. Thế nhưng chủ nhân của hồi ức thiên về Hải Phong hơn.

Giữa khoảnh khắc ngắn ngủi, tâm trí tôi hiện ra hai hình ảnh chớp nhoáng. Đầu tiên là người tóc vàng mắt xanh với ấn kí hình tam giác giữa trán tương tự dáng vẻ biến đổi của tên thủ lĩnh Hội Thiết Sát. Hình ảnh thứ hai có vẻ là bản thân Hải Phong. Luồng sáng bắn ra từ ngón tay hắn hóa thành ngọn lửa thiêu đốt cuốn sách cổ với nhan đề Tịch thuật, trong nháy mắt tro tàn rơi lả tả dưới mặt đất. Uổng thay, quyển sách mà tôi luôn tâm niệm tìm kiếm hóa ra đã bị thiêu hủy từ lâu.

Hai tay chống cằm tỳ xuống mặt bàn, tôi ngẩn người suy ngẫm. Tuy rằng sách không còn nhưng Tịch thuật tiếp tục được lưu truyền sau cái chết của Hải Phong, tới đời Thân vương Nhật Tuấn, chứng tỏ cách thức tu luyện vẫn đang tồn tại dưới dạng nào đó.

Một bản ghi chép khác chăng?

Tôi thầm suy đoán.

Chút khởi sắc trong thuật Xuyên thấu khiến tôi hào hứng không thôi. Mấy lần chạy tới nhà lão Trịnh thì lão toàn đi vắng, ngay cả Thiên di cũng không liên lạc được, chẳng biết đang lang thang tận phương trời nào. Thế là tôi đành ở lì đấy kiên nhẫn ôm cây đợi thỏ, rốt cuộc cũng đợi được bóng áo choàng lòe loẹt của lão xuất hiện trước cổng.

Lão tỏ ra ngạc nhiên khi nghe tôi thông báo về chuyển biến tích cực trong biệt năng. Đôi mắt lão nheo lại, tay vuốt vuốt chòm râu trắng theo thói quen, khẽ gật gù. “Không ngờ loại năng lực này thật sự tồn tại.”

Hóa ra ngay cả lão cũng chẳng có niềm tin.

Tôi tạm gác qua sự buồn bực trong lòng, tập trung vào mục đích chính tới đây, hỏi về vỏ sò hình tam giác từng cứu mạng mình trước kia. Lão Trịnh lật nó qua lại giữa các ngón tay, dùng giọng đều đều nói cho tôi biết, thứ này tên gọi Mắt Biển, bắt nguồn từ bộ tộc Hải Miên đã diệt vong cách đây mấy trăm năm. Nguyên do phải kể đến hành động tu luyện Tịch thuật trái pháp luật của Hải Phong gây hậu quả nghiêm trọng về sau.

Hải Miên là bộ tộc nhỏ sống biệt lập trên hòn đảo giữa biển, được coi là thuộc lãnh thổ của Nhật Lệ quốc. Năng lực phép thuật của bọn họ tương đối đặc biệt, có xu hướng thiên về linh hồn, trong đó nổi bật nhất là phép Chiêu hồn và Khiển hồn mà chỉ số ít người may mắn được sở hữu. Một thuật pháp có nguy hiểm hay không hoàn toàn phụ thuộc vào cách thức người ta sử dụng nó. Giữa thời kỳ hòa bình, bộ tộc nhỏ và tách biệt như Hải Miên không được triều đình chú ý tới. Đến khi Hải Phong nổi dậy thì những loại phép liên quan tới linh hồn kia bỗng chốc trở thành thứ công cụ giết người đáng sợ. Chúng là chất dẫn cần thiết để tạo nên đội quân bất tử, bao gồm những xác chết biết đi và những linh hồn bị thao túng. Một vài người thuộc tộc Hải Miên đã phản bội triều đình, dùng năng lực trợ giúp Hải Phong hoàn thiện Tịch thuật.

Rốt cuộc đội quân bất tử vẫn sụp đổ theo cái chết của Quỷ vương, nhưng đồng thời đã dấy lên mối lo ngại chưa từng thấy về loại phép từng bị xem nhẹ trước đây. Cuối cùng, vị Quốc vương tự cho là anh minh quyết đoán cứng rắn ban hành sát lệnh, tử hình toàn bộ tộc Hải Miên với tội danh “phản nghịch”. Toàn vương quốc lần nữa rúng động. Trong triều không ai lên tiếng phản đối, bởi họ biết rõ, thứ Quốc vương muốn tiêu diệt thực chất là loại phép linh hồn quỷ quái với mục đích phòng ngừa hậu họa về sau. Các đợt phản kháng yếu ớt nổi lên rồi bị đàn áp bởi quân đội. Chỉ sau thời gian ngắn, toàn tộc diệt vong trong cuộc tàn sát đẫm máu.

Đến nay, bao nhiêu con cá lọt lưới còn sót lại?

Có trời mới biết được.

Thế nhưng tôi có thể khẳng định, thủ lĩnh Hội Thiết Sát là một trong số đó. Hắn từng trì hoãn việc giết tôi khi Lam Hương xác nhận tôi là người đồng tộc. Thực chất tôi hiểu rõ đấy chỉ là lời nói dối ngay lúc đọc suy nghĩ của nàng, cộng thêm việc tôi sở hữu Mắt Biển khiến lời nhận định được củng cố thêm vài phần. Mảnh vỏ sò đặc biệt ấy là pháp khí số lượng có hạn được chế tạo bởi người Hải Miên và chỉ lưu truyền trong bộ tộc. Nó có tác dụng ngăn cản phép Chiêu hồn. Lão Trịnh dặn tôi cất giấu cẩn thận, không phải vì sợ người ta cuỗm mất mà bởi nó có thể khiến tôi bị tống vào tù. Tất cả những thứ liên quan đến tộc Hải Miên đều phạm vào cấm kị, dẫu có đôi chút dính dáng cũng sẽ biến thành tội nhân.

Nhân tiện nhắc tới Tịch thuật, tôi phân vân một hồi mới quyết định hỏi lão Trịnh về nó. Thật ra, lão Trần không muốn tôi đề cập chủ đề này với bất kỳ ai, đặc biệt là những người sở hữu năng lực phép thuật nổi bật khi mà kẻ được chọn làm Quỷ vương có khả năng lớn rơi vào một trong số họ. Tuy nhiên, tôi đoán lão Trịnh không phải, cho dù mọi thứ liên quan tới lão đều vô cùng thần bí khó lường. Hơn nữa tầm hiểu biết của lão sâu như biển, không tận dụng thì thật lãng phí.

Năn nỉ một hồi lão mới chịu tiết lộ sơ qua nguồn gốc của Tịch thuật. Nó có thể xếp vào loại phép cổ xưa, vì đã tồn tại từ rất lâu, cách đây không biết bao nhiêu đời Quốc vương. Theo sử sách ghi chép, Tịch thuật được sáng tạo bởi Nhật Lệ Vương IV – Quốc vương Nhật Thịnh. Bản thân vị Quốc vương này cũng là một nhân vật đặc biệt. Ông được coi là người Vô linh, vì từ khi sinh ra cho tới lúc trưởng thành chưa từng bộc lộ linh lực. Bù lại, ông sở hữu trí tuệ phi thường, không chỉ am hiểu tường tận các loại phép thuật mà còn có năng lực biến hóa chúng và sáng tạo nên nhiều phương thức tu luyện mới, hình thành các thuật pháp mới. Đương nhiên, để đạt được nhiều thành tựu trong suốt quá trình nghiên cứu thì không thể không kể đến sự trợ giúp của người chị song sinh tài hoa. Chính nàng đã trực tiếp thử nghiệm các phương pháp của ông và đưa ra những ý kiến sửa đổi chính xác, góp phần hoàn thiện chúng.

Là con trai duy nhất do Hoàng hậu thân sinh, Nhật Thịnh trở thành người kế vị chính thức sau khi Quốc vương băng hà. Tuy nhiên, hai chữ “Vô linh” mãi là khuyết điểm lớn nhất ám ảnh ông. Những triều thần không quy phục âm thầm kết bè kéo phái hình thành thế lực chống đối, ủng hộ Nhị hoàng tử ngồi lên ngai vàng. Nội chiến nổ ra. Quốc vương Nhật Thịnh từ một người Vô linh kém cỏi chỉ qua đoạn thời gian ngắn ngủi đã hoàn toàn lột xác, biến thành người sở hữu năng lực phép thuật mạnh mẽ khiến ai nấy đều kinh ngạc. Cuối cùng phản quân thất bại, Nhị hoàng tử chạy sang nước láng giềng cầu xin sự giúp đỡ, nguyện dâng một số thành trì thể hiện thành ý hợp tác.

Khi ấy, Nguyệt Hà quốc lớn mạnh đang nhăm nhe dòm ngó anh bạn hàng xóm sứt mẻ vì chiến tranh, được người ta tha thiết mời gọi thì ung dung nhảy vào, thừa lúc cháy nhà đi hôi của. Con hổ vàng đang trọng thương bị con hổ bạc dũng mãnh lao tới cắn xé, phải liên tiếp lùi về hang không chống đỡ nổi. Quốc vương Nhật Thịnh bị tin tức thua trận dồn đến đường cùng, rốt cuộc liều mạng sử dụng loại phép do chính mình tạo nên nhưng vĩnh viễn không muốn ai động vào. Đó là Tịch thuật.

Dưới sự điều khiển của ông, những quân sĩ chết trận tập hợp thành đội quân bất tử, từng bước đánh đuổi quân địch ra khỏi lãnh thổ Nhật Lệ. Thế nhưng, bản thân vị Quốc vương tài trí hơn người cũng bị ma khí tích tụ trong cơ thể mình chi phối, ngày càng khao khát chiến tranh và bành trướng thế lực. Không ai có thể ngăn cản ông. Mãi cho tới khi ông tự tay giết chết người chị mình quý trọng nhất, chút nhân tính mới đột ngột quay trở lại thức tỉnh thần trí. Thế rồi ông tự vẫn. Vương quốc từ đấy mới được yên bình.

Lão Trịnh kết thúc câu chuyện bằng tiếng thở dài não nề, buông lời nhận xét.

“Trải qua mấy chục năm làm người Vô linh, thứ mà Nhật Thịnh khao khát và dể tâm nhất hẳn là linh lực. Có lẽ ông luôn tìm cách khắc phục yếu điểm cũng như sự tự ti này. Cuối cùng, ông đã nghiên cứu ra cách lợi dụng linh lực của kẻ khác để biến chúng thành sức mạnh cho bản thân. Phép Tịch thuật dựa trên ma trận cộng hưởng, từ một người điều khiển hấp thụ linh lực của cả đội quân rồi lần lượt phân chia, rồi hấp thụ trở về. Cứ như thế quy trình lặp đi lặp lại khiến sức mạnh tăng tiến dần, tới mức không ai phá hủy nổi. Có điều, việc sử dụng linh hồn và thân xác người chết vốn dĩ là trái đạo lý, kết cục ai ai cũng thấy rõ. Nhân quả luân hồi, không ngờ luân hồi đến tận ngày nay.”

Tôi chìm trong mớ suy luận hỗn độn, bất chợt trí óc lóe sáng. “Quốc vương Nhật Thịnh là người sáng lập đồng thời sử dụng Tịch thuật lần đầu tiên, Thượng quân Hải Phong là người thứ hai và Thân vương Nhật Tuấn là người thứ ba. Thế nhưng khoảng thời gian chênh lệch giữa các lần vô cùng khác biệt. Liệu có thể kết luận rằng, ma khí đã tiêu tan hết sau cái chết của Nhật Thịnh không? Và đến đời Hải Phong là một khởi đầu hoàn toàn mới?”

Lão Trịnh đồng tình. “Ta cũng cho là vậy. Nhật Thịnh và Hải Phong cách nhau tận ba triều đại, khoảng thời gian để ma khí tìm vật chủ mới không lâu đến thế.”

“Tức là Tịch thuật có cách hóa giải triệt để?” Tôi kích động ngồi thẳng người dậy, mắt nhìn lão Trịnh không chớp.

“Có thể.” Lão gật đầu.

“Bằng cách nào?” Tôi buột miệng.

“Ta đương nhiên không biết.” Lão nhún vai, liếc tôi một cái. “Cho dù ta thông minh cỡ nào, ham học hỏi cỡ nào, cũng không thể tiếp nhận hết mọi kiến thức trên đời. Thiên tài cũng có giới hạn của thiên tài, chẳng qua giới hạn ấy hơi khác so với người bình thường.”

“Con hiểu rồi.”

“Hiểu cái gì?”

“Con đã lý giải được tại sao Nhật Vũ theo thầy học phép thuật trăm năm mãi không học được tính khiêm tốn. Cơ bản bởi trên người thấy không hề tồn tại đức tính ấy.”

Hàng lông mày sâu róm của lão chau lại rồi dãn ra. “Lúc không cần mà cố tỏ ra khiêm tốn sẽ bị coi là đạo đức giả.”

Tôi gật gù. “Thế nên làm người không dễ đối mặt với dư luận. Chỉ có thế làm vừa lòng số đông, không thể làm vừa lòng tất cả.”

Lão tiếp lời. “Tốt nhất là thành thật với chính mình.”

Trước lúc tạm biệt tôi, lão còn bổ sung thêm. “Cẩn thận với biệt năng của con.”

Tôi cười cười cảm ơn lời nhắc nhở của lão. Nếu sớm biết đây là cuộc trò chuyện cuối cùng giữa chúng tôi, hẳn là tôi sẽ không rời đi nhanh như thế. Đáng tiếc, trên đời luôn có những việc khiến người ta phải hối hận.